• Theo bạn thông tin nội dung website thế nào   Phong phú đa dạng
      Dễ sử dụng
      Hữu ích
  • SỐ LƯỢT TRUY CẬP
    TRUY CẬP TRONG NGÀY
 Bản in     Gởi bài viết  
Khu vực FDI đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội 

Cuối tuần qua tại Hà Nội, Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã tổ chức họp báo công bố Báo cáo dự báo xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp năm 2014, Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam giai đoạn 2000 – 2013 và Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2014.

IMG
Tổng cục Thống kê đánh giá, trong 30 năm đổi mới, khu vực FDI đã có
những đóng góp quan trọng trong tiến trình phát triển của nền kinh tế nước ta
Ảnh: Nhã Chi
 
Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam giai đoạn 2000 – 2013 của Tổng cục Thống kê (TCTK) cho biết, tổng số doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên phạm vi toàn quốc thời điểm ngày 31/12/2013 là 9.093 doanh nghiệp (DN), gấp 6 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000 - 2013 mỗi năm tăng xấp xỉ 16%. Trong đó, DN 100% vốn nước ngoài là 7.543 DN (chiếm 83% toàn bộ doanh nghiệp FDI), gấp 8,8 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000 - 2013 mỗi năm tăng xấp xỉ 20%. Doanh nghiệp liên doanh là 1.550 DN (chiếm 17% số doanh nghiệp FDI), gấp 2,3 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000 - 2013 mỗi năm tăng 6,7%.
 
Tổng số vốn của khu vực doanh nghiệp FDI sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2013 là 3.411 nghìn tỷ đồng, gấp 14,2 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000 - 2013 tăng 22,4%/năm. Doanh thu năm 2013 của khu vực này là 3.138 nghìn tỷ đồng, gấp 19,4 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000 - 2013 tăng 25,3%/năm. Khu vực FDI đã đóng góp vào ngân sách nhà nước 214,3 nghìn tỷ đồng trong năm 2013, gấp 9 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000 - 2013 tăng 18,1%/năm.
 
Báo cáo cũng chỉ rõ, khu vực FDI đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mặc dù khu vực này chiếm tỷ trọng không cao trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp về các chỉ tiêu như: số DN, lao động, vốn và doanh thu, nhưng khu vực FDI lại chiếm tỷ trọng cao về lợi nhuận và nộp ngân sách nhà nước. Thống kê cho biết, năm 2013 các doanh nghiệp FDI chiếm tới 45,4% tổng lợi nhuận và 30,5% tổng số nộp ngân sách nhà nước của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. 
 
Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, khu vực doanh nghiệp FDI vẫn bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Các doanh nghiệp FDI chủ yếu tập trung vào hoạt động gia công, lắp ráp, nguyên vật liệu chủ yếu nhập ngoại nên giá trị gia tăng chưa cao. Kỳ vọng rất lớn của Việt Nam là các doanh nghiệp FDI sẽ góp phần tích cực nhất vào việc chuyển giao công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng cho các nhà quản lý doanh nghiệp của Việt Nam. Đồng thời với kỳ vọng phát triển nhanh chóng các ngành có công nghệ cao, tạo ra nhiều giá trị gia tăng, giúp đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, các kỳ vọng trên hiện đều chưa được hiện thực hóa. Tỷ lệ DN 100% vốn nước ngoài thời điểm ngày 31/12/2013 chiếm 83% (còn lại 17% là DN liên doanh với nước ngoài), trong khi tỷ lệ này năm 2000 chỉ có 56%. Thống kê này cho thấy mô hình liên doanh không hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài, hoặc khi mới thành lập là liên doanh để tận dụng các điều kiện thuận lợi của các đối tác trong nước về đất, miễn giảm thuế, hạ tầng và các ưu đãi khác, dần dần các đối tác nước ngoài mua lại toàn bộ cổ phần để trở thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. 
 
TCTK đánh giá, trong 30 năm đổi mới, khu vực có vốn FDI đã có những đóng góp quan trọng trong tiến trình phát triển của nền kinh tế nước ta và khu vực này vẫn tiếp tục có vai trò quan trọng trong giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động; nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Trong thời gian tới, Chính phủ cần tiếp tục rà soát môi trường đầu tư, tạo yếu tố minh bạch và ổn định cho các nhà đầu tư nước ngoài để Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư.
 
 
 
Quang Minh
Nguồn: muasamcong.vn
Người đăng: T.An
[Trở về]

Thiết kế bởi Viện Công Nghệ Viễn Thông
(http://www.vnitt.ac.vn)